Thứ Sáu, 4 tháng 8, 2023

Giới thiệu

 

🩺💊 PHÒNG CHẨN TRỊ YHCT QUANG SANH ĐƯỜNG 💊
🩺Phụ trách chuyên môn: Bs CKI Trần Huy Quang với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Nội khoa. Bs Trần Đức Huy chuyên ngành YHCT
👉 Chuyên khám, tư vấn và điều trị các nhóm bệnh:
1. Tiêu hoá: Viêm loét dạ dày - tá tràng, trào ngược dạ dày thực quản, Viêm đại tràng, Trĩ nội, các bệnh Gan mật.
2. Các bệnh về đường hô hấp, tiết niệu
3. Đặc biệt nhóm bệnh điều trị kết hợp YHCT:
- Điều trị các bệnh lý cơ xương khớp, đau lưng, đau vai gáy, đau dây thần kinh tọa
- Điều trị liệt dây thần kinh số VII
- Suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể
- Hỗ trợ, tư vấn, điều trị yếu liệt nửa người do TBMMN
4. Thực hiện châm cứu, xoa bóp bấm huyệt, chiếu đèn, giác hơi, cứu ngãi.
5. Tư vấn sức khỏe miễn phí cho người bệnh.
👉 Lịch khám:
Thứ 2 đến Thứ 6: Sáng: 11h -13h30; Chiều 17h - 20h
Thứ 7, Chủ nhật: Sáng 8h-11h, Chiều 15h-20h
💖TRÂN TRỌNG CẢM ƠN SỰ TIN YÊU CỦA QUÝ KHÁCH HÀNG!💖
🌱------------------🌴-----------------☘️
🏠 Phòng chẩn trị YHCT Quang Sanh Đường
🌏 KP An Đông, Tân Bình - Hiệp Đức - Quảng Nam
☎️ Hotline: 0985689588 (Bs Quang)
0982727656 (Bs Huy)



Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2021

Nhân ngày giỗ Hải Thượng Lãn Ông

 HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC

BS Lê Thân (Biên soạn)
Hải Thượng Lãn Ông tên thật là Lê Hữu Trác, sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý (1720), nguyên quán ở thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông mất ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791), ở quê mẹ xứ Bầu Thượng, xã Tình Diệm (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), thọ 71 tuổi. Hiệu Hải Thượng của ông ghép từ chữ Hải là tên tỉnh Hải Dương; còn chữ Thượng là phủ Thượng Hồng, cũng là xứ Bầu Thượng. Lãn Ông có nghĩa là ông lười, ngụ ý muốn nói là lười biếng danh lợi.
Ông xuất thân từ một gia đình khoa bảng, hồi nhỏ theo cha học ở kinh thành Thăng Long (Hà Nội), đã nổi tiếng là thông minh, học giỏi, hiểu rộng, thơ hay. Năm Kỷ Mùi (1739), thì cha mất, ông tiếp tục tự đọc sách, học binh thư, luyện võ, thi tam trường, rồi sau không thi nữa.
Ông lớn lên giữa lúc chế độ phong kiến trong cơn khủng hoảng nghiêm trọng, xã hội Việt Nam rối ren cực độ. Năm 1740 ông vào quân đội của chúa Trịnh, những năm sống trong quân ngũ ông nhìn rõ sự thối nát, mục rỗng của chính quyền đương thời, chán ghét chiến tranh; nên mặc dù ông cầm quân thường thắng trận, nhưng luôn từ chối việc cất nhắc. Nhân có tin người anh ở Hương Sơn vừa mất, ông xin xuất ngũ để về quê nuôi mẹ và cháu thay anh.
Về quê ông lao tâm và lao lực trong cuộc mưu sinh cũng như trao dồi học thuật, không bao lâu ông ốm nặng, chạy chữa vài năm không khỏi. Sau ông tìm đến nhà cụ lương y Trần Độc ở Rú Thành (Nghệ An) để chữa bệnh. Dưỡng bệnh ở đây hơn một năm, vốn tính ham học hỏi, nhân lúc nhàn rỗi ông mượn sách thuốc để đọc. Với tố chất thông minh, kiến thức rộng nên ông nhanh chóng hiểu sâu y lý, do đó càng đọc sách thuốc càng thấy say mê và thú vị, mặc dù ông chưa quyết tâm học. Lúc này, Hải tướng quân đương vây quân địch ở vùng Bào Giang, có người đề bạt ông, nhưng ông nghĩ: “Trường đời danh lợi đã gởi cho nước trôi mây nổi từ lâu rồi” (Y huấn), ông cố ý từ chối với lý do còn mẹ già không thể đi xa được.
Ông quay về lại Hương Sơn, dựng nhà ở dưới rừng, quyết chí học tập nghề y. Chủ yếu là ông tự học qua các sách của mọi nhà y, ngày đêm miệt mài, mò mẫm, suy đoán, tự hỏi tự đáp để tìm ra chân lý. Ông giao tiếp với một lương y cũng họ Trần ở làng Đậu Xá bên cạnh. Sau vài ba năm ông bắt đầu chữa được một số bệnh thông thường. Nhưng ông thấy y lý thật sâu rộng, mùa thu năm 1754 ông ra kinh đô để tìm thầy học thêm, “nhưng giận rằng, không có duyên để gặp được thầy giỏi” (Y huấn), ông mua thêm một số sách thuốc mang về Hương Sơn, đóng cửa đọc sách, vừa nghiên cứu vừa chữa bệnh. Sau 10 năm, ông đã nổi tiếng ở vùng Hoan Châu (Nghệ An).
Trong đời làm thuốc, Lãn Ông luôn luôn tích cực, nhiệt tâm phục vụ người bệnh, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, chăm nom người bệnh như mẹ hiền. Ông rất quan tâm đến những người nghèo khó, mồ côi, góa bụa … “Vì những người giàu sang không lo không có người chữa, còn những người nghèo hèn thì không đủ sức đón được thầy giỏi, vậy ta để tâm một chút, họ sẽ được sống một đời” (Y huấn).
Lãn Ông luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm đối với tính mạng người bệnh, hết sức thận trọng, chín chắn, chu đáo, tỉ mỉ trong việc khám bệnh, kê đơn, bốc thuốc; khẩn trương, bình tĩnh trước bệnh nguy cấp. Ông quán triệt các phương châm “dùng thuốc như dùng binh”, “cứu người như cứu hỏa”..., với những trường hợp nguy nan, ông đem hết nhiệt tâm cứu chữa đến cùng với tinh thần “còn nước còn tát”, không hề từ nan vì lòng nhân đạo và lương tâm nghề nghiệp, không khuất phục trước bệnh tình vì lý tưởng phấn đấu để nâng cao trình độ y học nhằm chiến thắng bệnh tật.
Lãn Ông đặc biệt coi trọng y dược học dân tộc, ông luôn luôn thể hiện tinh thần tự hào dân tộc và ý thức tự lực tự cường trong sự nghiệp của mình. Ông đề cao sản phẩm Việt Nam như: quế Thanh Hóa, sâm Bố Chính… Phát huy chủ trương “dùng thuốc Nam chữa bệnh người Nam” của Tuệ Tĩnh, sưu tầm, phát hiện và nghiên cứu trên lâm sàng nhiều vị thuốc mới, tổng hợp thêm nhiều phương thuốc gia truyền công hiệu để phổ biến cho nhân dân, kèm theo các cách chữa bệnh đơn giản như: xông hơ, chườm cứu, xoa bóp…, để cho mọi người có thể tự chữa các bệnh thông thường, với cây nhà lá vườn sẵn có, được kịp thời và đỡ tốn tiền thuốc. Những tinh túy về phong tục vệ sinh của dân tộc, đều đươc phân tích và tổng hợp trong tập Vệ sinh yếu quyết. Song song với việc bảo tồn những vốn quý của nền văn hóa dân tộc, ông không quên chống những tệ nạn, hủ tục tồn tại gây nên bệnh tật, tai nạn, chết chóc cho xã hội đương thời.
Ông cho rằng “nghề thuốc là thanh cao, ta càng phải giữ gìn phẩm chất cho trong sạch” (Y huấn), ông viết: “khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi, chớ có mưu cầu quà cáp, vì những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang, huống chi với những kẻ giàu sang, tính khí thất thường mà mình cầu cạnh, thường hay bị khinh rẻ” (Y huấn).
Lãn Ông là một nhà khoa học có thái độ tiếp thu học thuật nước ngoài một cách tích cực, có chọn lọc, không giáo điều và giàu tính sáng tạo. Trước hết để có thể tiếp thu và thừa kế đầy đủ học thuật của các y gia ngoại quốc, ông đã công phu ngày đêm thu thập và tham khảo rất nhiều tài liệu. Thứ đến, mặc dù đọc sách rất nhiều, tìm hiểu rất rộng, nhưng Lãn Ông luôn luôn tiếp thu có phê phán với tinh thần độc lập suy nghĩ, không chấp nhận một cách giáo điều tất cả những gì viết trong sách cổ, ví như: Có thuyết nói “nhân sâm giúp ích cho hỏa” đã gây ấn tượng cho đời sau không dám dùng sâm để chữa bệnh hư lao (suy nhược) là thiên lệch…; điều này được thể hiện ngay cả đối với những nguyên tắc được ghi trong các y thư kinh điển của đông y như: Nạn kinh, Thương hàn luận… Cuối cùng, trên cơ sở tiếp thu một cách có phê phán, với tinh thần độc lập, tự chủ, ông đã sáng tạo và đề xuất ra nhiều quan điểm và phương pháp trị bệnh có hiệu quả, phù hợp với các điều kiện địa lý, khí hậu, đất đai, con người và hoàn cảnh kinh tế của nước ta thời bấy giờ. Ông đã sáng chế ra hàng chục phương thuốc mới, được ghi trong quyển Hiệu phỏng tân phương.
Lãn Ông cần cù nghiên cứu, sưu tầm kinh nghiệm của mọi nhà y, ngày đêm lao tâm khổ tứ, tiếc từng giây từng phút, để xây dựng một nền y học thích hợp với bệnh tình nước ta. Ông đã lấy sách Nội kinh làm gốc, sách Cẩm nang, Cảnh Nhạc làm đề cương, tham hợp với nhiều sách khác, thâu lái những tinh túy của y học cổ truyền, tổng hợp những kinh nghiệm trong dân gian, kết hợp với những kinh nghiệm trên lâm sàng, đúc kết thành một hệ thống Lý Pháp Phương Dược của y học Việt Nam thành bộ sách Hải Thượng y tôn tâm lĩnh, gồm 28 tập, 66 quyển. Mở đầu bộ sách là tập Y huấn cách ngôn, đủ hiểu ông chú trọng đến y đức ở mức rất cao. Ông còn mở lớp huấn luyện y học cho các môn sinh
Chất lượng, khối lượng lao động của ông rất lớn. Trong trước tác của mình, không những ông ghi lại những trường hợp chữa khỏi tức Y dương án. Mà cuốn Y âm án (những bệnh án chữa không có kết quả), là một đặc trưng khác biệt với các tác giả từ xưa tới nay. Ông không ngần ngại nêu lên cả những điều mà mình chưa biết tới, chưa làm được để người đương thời và người đời sau cùng suy ngẫm, nghiên cứu, để “mong các bậc trí thức đời sau có nhiệt tình với nghề làm thuốc, thấy những chỗ hay của tôi tuy không đủ bắt chước, nhưng những chỗ dở của tôi cũng đáng làm gương, không nên quá yêu tôi mà bảo là chỉ chữa được bệnh không chữa được mệnh. Đó là một cái may cho nghề làm thuốc” (Y âm án). Chỉ một điểm này thôi - ngoài nhiều điểm ở các quyển khác - đủ nói lên tầm cao của lòng trung thực, tầm cao của ý thức đối với học thuật, tầm cao của lòng thương yêu người bệnh, tầm cao của phẩm giá con người chân chính.
Lãn Ông không chỉ là một thầy thuốc lỗi lạc, ông còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc của cuối thời Lê. Ông đã dùng văn học, tri thức của mình vào những trước tác có gía trị thiết thực, đem lại lợi ích lâu dài cho dân tộc. Ông có những bài thơ rất hay, những lời văn thâm thúy nói lên tâm tư kiên nghị và kiến thức sâu rộng của một nhà y học văn học lão luyện uyên thâm, có thơ ca bằng chữ nôm lời rất bình dân để cho người đọc dễ nhớ.
Năm 1970, Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc đã chọn kỷ niệm 250 năm ngày sinh nhật của Lãn Ông là để nêu cao tên tuổi và sự nghiệp của ông, là cả một vinh dự cho Tổ quốc ta đã sản sinh ra một con người ưu tú làm rạng rỡ y giới. Sự nghiệp của Lãn Ông là một cống hiến vô cùng to lớn cho nền y học dân tộc, ảnh hưởng của ông thật sâu rộng trong y giới Việt Nam. Ông đã trở thành một nhà y học nổi tiếng đương thời, về sau được nhân dân ta suy tôn là một Đại y tôn Việt Nam. Từ năm 1834 giới y học đã phối tự Lãn Ông vào Y miếu Thăng Long (Hà Nội) để ghi nhớ công trạng của ông. Tháng 12 năm 1999, Bộ y tế đã quyết định lấy “9 điều y huấn cách ngôn” của ông làm “ Đạo đức hành nghề Y dược học cổ truyền” cùng với 12 điều y đức chung của ngành y, hằng năm lấy ngày rằm tháng giêng âm lịch ngày mất của ông làm ngày truyền thống của những người làm công tác Y dược học cổ truyền.
Cuộc đời của Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác là hình ảnh cao đẹp của người thầy thuốc với kiến thức uyên thâm, với tinh thần trách nhiệm cao cả trong nghề nghiệp, lòng nhẫn nại, tận tâm, đức hy sinh và lòng thương yêu người bệnh vô bờ bến. Ông thật xứng đáng là người đã dựng “ngọn cờ đỏ thắm” trong nền Y học nước nhà, là tấm gương sáng chói về y đức, y đạo, y thuật cho đời sau noi theo mãi mãi

Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2019

Bột gạo lứt dinh dưỡng F1



Thực phẩm bổ sung Dinh dưỡng F1 là sản phẩm chiết xuất từ màng gạo lứt giúp cơ thể:
1. Bồi bổ sức khỏe, chống suy nhựợc cơ thể, kém ăn, kém ngủ.
2. Phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh mãn tính như: tiểu đường, tim mạch, huyết áp, gút, đại tràng, rối loạn tiêu hóa và một số bệnh ung thư.
3. Hạn chế lão hóa, làm đẹp da, sáng hồng, mịn, giảm vết nhăn. Dùng để đắp mặt hiệu quả và an toàn hơn bất kỳ mỹ phẩm nào.
4. Giúp cơ thể đào thải chất độc, gốc tự do, hồi phục và tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể.
5 Giúp trẻ em bị chậm lớn, còi xương, biếng ăn trở nên khỏe mạnh, hay ăn, chóng lớn.
Sản phẩm hoàn toàn không có hóa chất độc hại, không có tác dụng phụ. Đặc biệt gạo lứt được tuyển chọn hoàn toàn từ những vùng nguyên liệu sạch. Dinh dưỡng F1 đã được Bộ Y tế Việt Nam cấp Giấy xác nhận về công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm số 13628/2013/ATTP/XNCB.
ĐỐI TƯỢNG SỬ DỤNG:
Dành cho mọi đối tượng. Đặc biệt:
- Người cao tuổi, mắc các bệnh mãn tính liên quan đến rối loạn chuyển hóa như: Tiểu đường, tim mạch, đại tràng, gút, mỡ máu...
- Người có hệ tiêu hóa kém, suy nhược cơ thể.
- Người già yếu, người ốm dậy.
- Ăn kiêng, giảm cân.
* CÁCH DÙNG
- Người lớn sử dụng mỗi lần 2 thìa nhỡ đầy (15g) + 80-100ml nước ấm (400 C), uống vào lúc đói.
- Người mắc các bệnh mãn tính sử dụng ít nhất 2 lần/ngày (mỗi lần 15g).
- Trẻ em từ 1 -4 tuổi uống 1 lần/ngày, mỗi lần 5-8g (gần 1 thìa nhỡ đầy).
- Người ăn kiêng dùng 30- 50g - tương đương giá trị dinh dưỡng 4 bát gạo lứt.
có chất cướp nhân của tế bào ung thư . Có tác dụng sửa sai sót trong quá trình phân bào gây ung thư.
Thông tin cho bạn: Dinh dưỡng F1 được tạo thành chủ yếu từ tinh chất gạo lứt đã được xử lý, chiết tách từ gạo lứt sạch bằng công nghệ đặc biệt nên đã lấy lại được 65% giá trị của gạo lứt, gồm những chất quý giá nhất cho sức khỏe mà hàng trăm năm nay nhân loại đã bị mất đi do bị phân hủy trong quá trình xay xát ngũ cốc. Đó chính là một trong các nguyên nhân quan trọng gây nên sự phát triển nhanh chóng tràn lan của các bệnh mãn tính trên toàn cầu.
Thực phẩm bổ sung Dinh dưỡng F1 chứa hơn 120 chất kháng oxy hóa (giàu nhất trong 28 loại thực phẩm giàu các chất kháng oxy hóa trên thế giới) hàng trăm các hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học, chúng giúp cho cơ thể đào thải chất độc và gốc tự do ra khỏi cơ thể, giúp hồi phục và tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, làm chậm quá trình lão hóa, làm cho các quá trình chuyển hóa trong cơ thể trở nên cân bằng, hài hòa, không bị rối loạn và mất cân bằng (nguyên nhân chính gây nên các bệnh mãn tính).
Sản phẩm đã dựa trên kết quả cùa hàng ngàn các công trình nghiên cứu khoa học gần đây của các nhà khoa học Mỹ và thế giới.

Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

Thiền sư-Danh y Nguyễn Minh Không

                                                                                                        Nguồn: Sinh Dược

Nói đến Bái Đính là nói đến vùng đất “địa linh – nhân kiệt”. Đây là nơi mà Quốc sư Nguyễn Minh Không thời nhà Lý tu Phật và hành lễ trên đỉnh núi rồi đặt tên cho núi, cho chùa. Dấu chân của đức Thánh Nguyễn dày đặc khắp các nơi.
Khu tâm linh núi chùa Bái Đính nằm trong Quần thể Danh thắng Tràng An, cách thành phố Ninh Bình khoảng 15 km, nằm ở phía Tây khu di tích lịch sử cố đô Hoa Lư, là ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, được biết đến với nhiều kỷ lục như tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á, chuông đồng lớn nhất Đông Nam Á, hành lang có nhiều tượng Phật nhất…là sự tiếp nối tâm linh từ ngàn năm trước chuyển tiếp đến ngàn năm sau. Với kiến trúc đồ sộ, nguy nga, lộng lẫy, những pho tượng có nét uy nghi, bao dung, nghệ thuật chạm khắc, đúc đồng tinh tế, tài tình cùng cảnh quan hùng vĩ, núi gối đầu sông, mây vờn đỉnh núi, không gian tâm linh thanh tịnh bao trùm khiến mỗi khi bước chân đến đây, người người thư thái, lòng sáng, tâm tịnh, hướng đến Chân -  Thiện – Mỹ.
 Đặt chân đến Bái Đính, ta có thể chiêm ngưỡng ngay trước mắt Tam Quan hoành tráng cao gần 17 mét. Đây chính là ranh giới giữa cõi thiêng và cõi tục. Chỉ cần bước chân qua Tam Quan, người ta có thể hòa mình vào không gian tâm linh thanh tịnh. Tiếp đó là chuông đồng nặng 36 tấn, được treo trên tháp cao với tiếng ngân vang vọng, lan tỏa khắp nơi, xua tan mọi nỗi thống khổ, cảnh tỉnh chúng sinh. Hành lang dài với 500 vị La Hán, là con đường đưa ta đến gần với cõi Phật. Các pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tất, Phật Thích Ca Mầu Ni bằng đồng lớn nhất Việt Nam mang trên mình bao nét uy nguy, bác ái, đem niềm tin về những điều thiện gieo vào lòng người. Một công trình kiến trúc đồ sộ, tinh tế được đặt giữa chốn bồng lai tiên cảnh. Nhìn từ xa, khu chùa Bái Đính như đang tựa mình bên sườn đồi xanh thẳm. Cảnh sắc lung linh huyền ảo cùng không gian thiêng rộng lớn đã đưa Bái Đính trở thành một bức tranh tâm linh vừa tuyệt mĩ, vừa cổ kính.
Nói đến Bái Đính là nói đến vùng đất “địa linh – nhân kiệt”. Đây là nơi mà Quốc sư Nguyễn Minh Không thời nhà Lý tu Phật và hành lễ trên đỉnh núi rồi đặt tên cho núi, cho chùa. Dấu chân của đức Thánh Nguyễn dày đặc khắp các nơi. Ông sinh ra tại huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Sinh thời, Nguyễn Minh Không là một thầy thuốc tài ba bậc nhất, là một nhà sư tài cao đức trọng. Ông đã phát hiện ra nơi tiên cảnh, núi lại hướng về phía Tây như chầu về đất Phật, rừng núi mênh mông với muôn vàn cây thuốc quý. Và ông đã dừng lại nơi đây để tu hành và biến nơi đây thành “vườn sinh dược” (có nghĩa là vườn thuốc quý) để cứu sinh độ thế muôn dân. Ông đã trực tiếp bốc thuốc chữa bệnh cho chúng sinh nhờ vào những loại thuốc quý có sẵn nơi đây và một số loại ông đưa từ nơi khác về trồng. Qua đây, ta có thể thấy sự nghiệp tu hành của đức Thánh Nguyễn gắn liền với “cứu nhân độ thế”.  Ông còn được coi là thần y khi chữa bệnh “hóa hổ” cho nhà vua Lý Thần Tông (1128-1138). Lưu truyền rằng: Khi sư Đạo Hạnh sắp trút xác, bèn đem thuốc và thần chú giao cho Nguyễn Minh Không và căn dặn “20 năm sau nếu thấy Quốc Vương bị bệnh nặng thì đến chữa ngay”. Sau khi thiền sư Đạo Hạnh hóa, đầu thai là Dương Hoán, được Vua Nhân Tông yêu quý lập làm Hoàng Thái tử và kế vị ngai vàng tức Lý Thần Tông hoàng đế. Lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 Vua Lý Thần Tông bệnh nặng, mình mọc đầy lông lá, tiếng như hổ gầm, quan quân vô cùng sợ hãi. Các danh y tài giỏi từ khắp nơi được triệu đến chữa bệnh cho vua nhưng bệnh tình không hề thuyên giảm. Khi đó trong dân gian, xuất hiện bài đồng dao của lũ trẻ chăn trâu rằng:
”Bổng bồng bông, tập tầm vông
Ở làng Điềm xá, có Nguyễn Minh Không
Chữa được bệnh cho đức Thần Tông.”
Nguyễn Minh Không lúc bấy giờ đang tu hành ở núi chùa Bái đính, được mời về Kinh đô để chữa bệnh cho nhà vua. Khi đến nơi, ai ai cũng nhìn ông với ánh mắt nghi ngờ, có người dè bỉu vì vẻ bề ngoài quê mùa của ông, Nguyễn Minh Không liền lấy một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc đóng sâu vào chiếc cột lim rồi nói: “Ai rút được chiếc đinh này ra thì người đó sẽ chữa được bệnh cho nhà vua”. Tất cả các danh y dù trong lòng có chút nghi ngờ nhưng vẫn tranh nhau mặc sức nhổ chiếc đinh đó, nhưng không tài nào nhổ được. Lúc đó, Nguyễn Minh Không chỉ dùng hai ngón tay kẹp lại , rồi nhẹ nhàng nhổ nhẹ chiếc đinh ra khỏi cột, khiến cho mọi người không khỏi khiếp phục. Tiếp đó, ông sai lấy một vạc dầu lớn đun sôi, thả vào đó một trăm chiếc kim và hỏi :”Có ai dùng tay  lấy đủ 100 chiếc kim trong này ra không?”. Tất cả đều rùng mình lắc đầu không dám. Ông liền thò tay vào vạc dầu đang sôi sùng sục, quậy lên khoảng ba bốn lần rồi vớt đủ 100 cái kim. Sau đó, Nguyễn Minh Không lấy nước dầu sôi tắm cho nhà vua, lấy kim châm vào các huyệt, dầu dội đến đâu, lông lá trút hết đến đó. Bệnh liền bớt ngay. Nhà vua, các quan thần cũng như những người có mặt ở đó vô cùng kính phục trước tài phép của Nguyễn Minh Không. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, Vua Lý Thần Tông phong ông là Quốc sư, tha thuế dịch cho vài trăm hộ. Ông trở thành vị cao tăng đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cũng là người đầu tiên áp dụng phương pháp chữa bệnh bằng thuốc Nam và châm cứu. Là một nhân vật có thật, có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân nhưng đôi khi có những “hành trạng” kỳ bí, thực thực hư hư nên người Việt tôn sùng ông là đức Thánh Nguyễn.

Có thể nói Bái Đính là nơi hội tụ của linh khí núi sông, của tâm linh dân tộc và của nhân kiệt xuất chúng. Thiên nhiên tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho những người con Ninh Bình phong cảnh sơn thủy kỳ tú, nhưng cũng chính con người cũng góp phần tôn vinh và làm đẹp thêm phong cảnh của tạo hóa. Tất cả những điều đó đã đưa Bái Đính trở thành một viên ngọc sáng lấp lánh, đa sắc màu, ngàn năm tâm linh, ngàn năm huyền thoại.

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

TÁC DỤNG CỦA CÂY LÁ ĐẮNG

Bác sĩ Trần Văn Năm: Tác dụng của cây Lá đắng: LÁ “MẬT GẤU” CÓ TÁC DỤNG TRỊ BỆNH GÌ? Bs. Trần Văn Năm Hiện phong trào sử dụng lá cây “Mật gấu” làm thuốc rất phổ biến. Thực chất đây ...

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016

NGÃ BA ANH



Ngã ba anh khác hẳn ngã ba em
Không rộng thế nhưng dài hơn hẳn
Khi thích thú dễ sa vào vực thẳm
Không gian này say đắm ngất ngây

Ngã ba anh lúc cạn lúc đầy
Giống như thủy triều mỗi ngày lên xuống
Biển lòng anh những điều mong muốn
Hai ngã ba này giao hưởng của đời nhau

Cũng từ đây sung sướng khổ đau
Cũng từ đây đói nghèo gian khó
Xin ngã ba em đừng gây sóng gió
Để biển lòng anh chung ngõ đi về.