NHẤT CHI MAI
Nguyễn như Hải
Hàng năm cứ độ xuân về, các giai phẩm xuân, báo xuân đều trình làng những bài thơ mới . Tuy nhiên có một bài thơ cũ cách đây gần ngàn năm vẫn thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần hàng năm mà không làm ai chán cả. Ðó là bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác. Nó được nhiều học giả và các nhà sư lý giải qua nhiều lăng kính khác. Nhân dịp xuân về tôi cũng mạo muội trình bày nó qua lăng kính của một người Thông Thiên Học.
Hàng năm cứ độ xuân về, các giai phẩm xuân, báo xuân đều trình làng những bài thơ mới . Tuy nhiên có một bài thơ cũ cách đây gần ngàn năm vẫn thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần hàng năm mà không làm ai chán cả. Ðó là bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác. Nó được nhiều học giả và các nhà sư lý giải qua nhiều lăng kính khác. Nhân dịp xuân về tôi cũng mạo muội trình bày nó qua lăng kính của một người Thông Thiên Học.
Bản Hán Việt như sau:
Xuân
khứ bách hoa lạc
Xuân
đáo bách hoa khai
Sự
trục nhãn tiền quá
Lão
tùng đầu thượng lai
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình
tiền tạc dạ nhất chi mai
Bài thơ này được Cụ Ngô
tất Tố dịch như sau:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân
đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm
qua sân trước một cành mai
Về phương diện văn
chương, bản dịch của cụ rất hay. Nó được thi nhân lồng vào đó cảm xúc của mình
và thi vị hóa thêm (hoa cười- việc đi mãi- già đến rồi). Cái đẹp thi văn chú
trọng nhiều vào nét thẩm mỹ hơn.. Ðể cho phù hợp với góc nhìn của mình, mang
tính khoa học quy luât hơn. Ðồng thời giữ được nét thản nhiên của thiền
và
hai cặp đối đại nhị nguyên (bốn chữ
cuối của bốn câu đầu) mà thiền sư rất chú trọng. (Tôi
xin mở ngoặc ở đây một chút . Mỗi góc nhìn đều có một sắc thái riêng và giới hạn
của nó. Ở đây tôi chỉ nêu ra sắc thái chứ không có ý phê bình.) Tôi xin được
dịch như sau:
Xuân
đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa khai
Dòng đời qua trước mắt
Tuổi già đến sau lưng
Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm
qua sân trước một cành mai
“Hoa rụng”, “Hoa khai”, “qua trước mắt” , “đến sau lưng” đó là những chữ tôi dùng để mô tả cuộc đời bằng sự quan sát khách quan , một đặc tính của khoa học. Ðồng thời vẫn giữ được âm điệu thản nhiên, một hương vị của thiền . Ngoài ra tôi dùng hai cặp “hoa rụng/hoa khai” và “trước mặt/sau lưng” để đối hai cặp “hoa lạc/ hoa khai” và “quá/lai”. Tuy rằng không chỉnh về lời, nhưng chỉnh về ý vì nó tạo được hai cặp đối đãi mà Thiền Sư Mãn Giác đã dụng công đưa vào mà đa số những bài dịch khác từ trước tới nay ít chú ý đến điểm này, một điểm then chốt khi bàn luận về thiền.
“Hoa rụng”, “Hoa khai”, “qua trước mắt” , “đến sau lưng” đó là những chữ tôi dùng để mô tả cuộc đời bằng sự quan sát khách quan , một đặc tính của khoa học. Ðồng thời vẫn giữ được âm điệu thản nhiên, một hương vị của thiền . Ngoài ra tôi dùng hai cặp “hoa rụng/hoa khai” và “trước mặt/sau lưng” để đối hai cặp “hoa lạc/ hoa khai” và “quá/lai”. Tuy rằng không chỉnh về lời, nhưng chỉnh về ý vì nó tạo được hai cặp đối đãi mà Thiền Sư Mãn Giác đã dụng công đưa vào mà đa số những bài dịch khác từ trước tới nay ít chú ý đến điểm này, một điểm then chốt khi bàn luận về thiền.
Trở lại bài thơ trên với
hai câu đầu, Thiền Sư Mãn Giác trình bày một quy luật bất di bất dich của thế
giới sắc tướng này: đó là lẽ sinh diệt, diệt sinh, thành, trụ, hoại, diệt,
xuân ,hạ, thu, đông, v…v ,
quy luật tuần hoàn của vũ trụ,
nét đặc thù của thế giới sắc tướng - ẩn hiện, biến ảo và quy luật này chi phối
tất cả mọi phần tử trong vũ trụ . Câu ba và câu bốn thiền sư đem quy luật này
ứng dụng cụ thể vào con người. Theo dòng đời con người sẽ già và mất . Cái hay
của bốn câu thơ trên là chổ một quy luật khoa học đã được thiền sư trình bày
bằng một tiết điệu của thi ca mà không làm mất đi tính chầt khách quan của định
luật khoa học. Ðọc bốn câu thơ trên ta thấy thiền sư không dùng bất cứ một tĩnh
từ hay trạng từ nào (thường thì những tĩnh từ hay trạng từ hay được thi nhân
dùng dể diển tả những cảm xúc của thi nhân cùng tăng phần thẩm mỹ. Tuy nhiên,
đôi khi chúng làm mất đi cái tính khách quan).Thay vào đó thiền sư dùng toàn
động từ để mô tả tánh cách vận hành của một quy luật khoa học một cách rất chính
xác, nhưng khi đọc lên lại vẫn có giai điệu thi ca mới hay (thường trong thơ mà
dùng toàn động từ đơn điệu thì nó dễ thành văn xuôi ). Ngoài ra thiền sư đã khéo
léo trong khi gieo vần, đặt bốn chữ cuối cùng của bốn câu thơ đầu thành ra hai
cặp, lạc/khai ( diệt/sinh), quá/lai (đi/đến) để tạo thành ấn tượng cho người đọc.
Bằng lối điệp ý, Thiền Sư đã xử dụng hai cặp đối đãi nhị nguyên liên tục trong
bốn câu đầu. Ðiều này cho chúng ta thấy thiền sư muốn nhấn mạnh đến quy luật tất
yếu này, quy luật của thế giới nhị nguyên đầy sắc tướng này. Nhìn thấy việc dụng
công trong việc dùng chữ của tác giả, nên tôi cũng theo ấy mà dịch .
Trong câu ba thiền sư
dùng chữ “nhãn tiền”, hẳn là thiền sư muốn nói cái quy luật này quá rõ ràng ai
cũng nhìn thấy, nó quá hiển nhiên, lồ lộ giữa ban ngày. Quả thật, quá rõ ràng.
Hoa nở rồi hoa tàn, rụng -
MẤT.
Con người sinh ra, trưởng thành, bịnh tật rồi chết, hình hài tan biến -
MẤT.
Quả thật,không còn trật vào đâu
KHI NÓ BIẾN MẤT
trong thế giới sắc tướng này, và rồi ai cũng đinh ninh là như vậy. Nhưng vừa dứt
câu bốn qua câu năm thiền sư liền cảnh giác : “Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết”.
Bây giờ chúng ta lần lượt xem xét từng chữ trong câu trên xem thiền sư muốn
truyền đạt điều gì. Xuân tàn ý nói đến quy luật. Còn
hoa
ở đây biểu tượng cho Sự Sống là
Chơn Nhơn
là Bản Ngã,
là Bản Lai Diện Mục
, là cái gì cũng được tùy bạn gọi. Hoa lạc tận là hoa rụng hết, không còn hoa
nữa -biến mất.
Tóm lại ý của câu thơ thứ năm là đừng lầm lẫn khi nghĩ rằng sự hủy diệt hình hài,
sắc tướng cũng hủy diệt luôn sự sống ẩn tàng ở bên trong mà Thông Thiên Học gọi
là gọi là Chơn Nhơn,
con người thực thụ của mình- bất tử, không bao giờ chết. Chỉ có
Phàm Nhơn
ẩn hiện theo quy luật. Sự hiển
rồi ẩn
của Phàm Nhơn cho chúng ta cái cảm giác mất mát. Theo Thông Thiên Học, Phàm nhơn
không chỉ là Thể Xác
này mà nó còn có hai thể khác nữa; đó là Thể
Vía và
Thể trí.
Theo chu kỳ tiến hóa
( luân hồi),con
người thể hiện qua các thể
để tiến hóa nên cái định luật xuân tàn này chỉ ứng dụng cho thế giới sắc tướng
của các thể
mà thôi. Hình tướng biến thiên, còn mất, ẩn hiện, đôi khi người ta còn gọi nó là thế giới mộng ảo
nhưng Sự Sống, Chơn Nhơn, con người thực, linh hồn vẫn trường tồn bất diệt.
Câu sáu thiền sư sẽ cho
chúng ta thấy cái trường tồn bất diệt ấy, một câu thơ thật thần kỳ. Chúng ta hãy
xem câu sáu nói gì.
“Ðêm qua” nói về ngày tháng,
biểu tượng cho thời gian.
“Sân trước” nói về nơi chốn,
biểu tượng cho không gian.
Một cặp nhị nguyên : không
gian/ thời gian.
Thường thì chúng ta thấy
cặp nhị nguyên xuất hiện dưới dạng có/không, trắng/đen, phải /trái, trước /sau,
sinh/tử như một dạng hình học phẳng. Nhưng ở câu kết thiền sư cho chúng ta thấy
thêm một dạng thức khác đó là cặp thời gian và không gian như dạng hình học
không gian đa chiều. Nó biến ảo khôn lường rất khó mà nhận dạng được chúng. Hải
ở Việt Nam, Hải ở Hoa Kỳ, Hải 1960,Hải 2000 Hải nào là Hải đây? Cặp nhị nguyên
này cũng rất quen thuộc với người Thông Thiên Học.
Ngoài ra thiền sư cũng cho
chúng ta thấy chúng trong dạng thức nhị nguyên khác: âm
/dương.
“Ðình tiền”- sân trước ý là
lồ lộ công khai biểu tượng cho dương tính
.
“Tạc dạ” - đêm tối ý là ẩn
kín biểu tượng cho âm tính.
Quả thật là tài tình khi
dụng ngữ. Cùng một chữ mà Thiền sư làm cho người đọc nhận ra được tính đa dạng
biến hóa của một cặp nhị nguyên như một viên kim cương lấp lánh nhiều mặt.
Theo tôi câu sáu này có
hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất thiền sư muốn truyền đạt là Sự Sống Duy Nhất (nhất chi
mai) hay Chơn Nhơn nó thường hằng. Nó lồ lộ giữa ban ngày(đình tiền) vì vô minh
(tạc dạ) nên chúng ta không nhận ra được . Chúng ta chỉ thấy cái sắc tướng bề
ngoài mà thôi.
Muốn hiểu được nghĩa thứ
hai mà thiền sư muốn truyền đạt, chúng ta phải để ý đến cách hành văn trong câu
sáu. Nó không phải là một câu mà là ba nhóm chữ kết hợp mà không có động từ_:
“Ðình tiền_ tạc dạ _nhất chi mai”. Những khoảng hở không động từ này chính là
hành động mà hành gỉa phải tự điền vào. Thật vậy, qua một khoảng cách thì chúng
ta phải làm thế nào? Chỉ có một cách duy nhất là phải vượt qua. Phải vượt qua
thế giới nhị nguyên đầy sắc tướng này để đến
bờ nhất thể _nhất
chi mai . Nếu thiền sư
dùng động từ vượt ở trong câu thì nó là cái vượt của nhị nguyên mất rồi. Không
thể nói được, chỉ có sống thôi, chỉ có hành động thôi. Thiền sư đã dẫn dắt hành
gỉa một đoạn đường rồi để hành gỉa phải tự mình tìm lấy cho mình một hành động
thích hợp mà sống-sống thiền
. Như thế mới quả thật là thiền. Không nói mà là nói. Không dùng động từ mà đầy
cả hành động. Khi sự sống được người ta trình bày, được nói, đươc chuyển thành
khái niệm hay được định nghĩa thì nó đã chết tức thì cho nên thiền sư không nói
mà để dành cho hành gỉa tự điền vào chỗ trống-
tự hành.
Quả thật là đầy tính thiền.
Nói tóm lại bài thơ trên
thiền sư Mãn Giác đã dẫn dắt hành giả từ thế giới nhị nguyên đến thế giới trường
tồn bất diệt một cách mạch lạc và đầy hương vị của thiền học. Thiền sư ân cần
nhắc nhở dù cho sắc tướng có biến thiên thế nào cũng đừng lầm lẫn. Hình tướng bị
hủy diệt, tan biến đó chỉ là những biến ảo của thế giới nhị nguyên đầy sắc tướng
mà thôi. Hành gỉa phải hiểu rằng còn có
"một
cành mai " một
Sự Sống Duy Nhất
vẫn trường tồn, một Bản Ngã duy nhất
vẫn bất diệt đang ẩn tàng trong đó. Theo chu kỳ tiến hóa,
Phàm Nhơn
ẩn, hiện - chết, sống nhiều kiếp làm cho chúng ta có cảm giác mất mát. Sự mất
mát, sự ẩn rồi hiện chỉ là sắc thái của những chu kỳ tiến hóa mà thôi .Nên dẫu
Phàm Nhơn có ẩn,hiện ,biến mất nhưng Chơn
Nhơn vẫn còn đó bất
diệt.
Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm
qua_ sân trước_một cành mai.